Tháng ba, tiết trời dịu nhẹ pha cái rét hanh hao như muốn nhắc trời còn xuân. Tháng ba cũng là tháng diễn ra nhiều ngày lễ truyền thống của Việt Nam: Tiệc mùng ba tháng ba thơm mùi bánh trôi “bảy nổi, ba chìm”, rồi ngày Giỗ Tổ mùng mười tháng ba gợi nhắc con người nhớ về quê cha đất Tổ; và không thể quên ngày Tết Thanh minh mà đại thi hào Nguyễn Du đã viết:
“Thanh minh trong tiết tháng Ba
Lễ là tảo mộ, hội là đạp thanh
Gần xa nô nức yến anh
Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân”
Lễ là tảo mộ, hội là đạp thanh
Gần xa nô nức yến anh
Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân”
Cụ Nguyễn Thị Sinh làm bánh cúng tổ tiên trong ngày thanh minh. Ảnh Trang Linh
Ngày Tết Thanh minh người Việt thường đi tạ mộ (tảo mộ) để tưởng niệm hương hồn người đã khuất và sửa sang phần mộ vốn được coi là “nhà cửa” của tổ tiên và người thân. Việc chăm sóc, cúng bái nơi phần mộ thể hiện nét văn hóa tâm linh, phong tục tập quán của từng dân tộc. Nếu người Kinh ở một số nơi thường đi tảo mộ vào dịp cuối tháng Chạp với ý nghĩa mời ông bà, tổ tiên về ăn Tết cùng con cháu; thì người Sán Dìu lại đi tảo mộ vào đúng dịp thanh minh ghi trong lịch âm để mong tổ tiên phù hộ cho con cháu sáng tỏa. thông minh như ý nghĩa của hai từ “Thanh minh”. Tùy vào từng năm, ngày Tết Thanh minh sẽ xê dịch khác nhau, nhưng thường rơi vào tháng 2 hoặc tháng 3 âm lịch. Đồng bào Sán Dìu rất coi trọng ngày Tết Thanh minh và tổ chức khá linh đình với nghi lễ mang bản sắc rất riêng.
Chúng tôi tìm về thôn Bảo Phát, xã Hợp Châu (Tam Đảo) - nơi đa số là người dân tộc Sán Dìu sinh sống để tìm hiểu bản sắc riêng ấy trong ngày Tết Thanh minh. Cụ Lưu Đình Phong, một cao niên người Sán Dìu trong thôn đã kể cho chúng tôi nghe về ngày lễ của đồng bào mình với niềm tự hào và thành kính. Theo lời cụ, người Sán Dìu Tam Đảo có phong tục “nhất táng thiên thu” (người chết chỉ chôn một lần, không cải táng như phong tục của người Kinh), do vậy, việc chăm sóc “nhà cửa” của tổ tiên, ông bà, cha mẹ hàng năm rất được coi trọng. Dịp thanh minh hàng năm sẽ có một ngày chính (năm nay là ngày 14-3 âm lịch), trước hoặc sau 3 ngày (lấy ngày chính hội làm mốc), người Sán Dìu sẽ tụ họp con cháu đi tảo mộ. Trước ngày đi tảo mộ, người nhà đi kiếm lá lau xau trên rừng, chém nhỏ mang ngâm lấy nước, bỏ bã. Lấy một con dao cùn, nung đỏ rồi nhúng vào nước ngâm lá lau xau. Vo gạo nếp, để khô rồi ngâm gạo vào nước lá lau xau đã đun sôi. Sau đó lấy gạo đó mang đồ xôi. Xôi sẽ có màu đen, gọi là xôi đen. Nhưng ngày nay, lá lau xau rất khó kiếm nên người Sán Dìu đã thay bằng xôi đỗ. Có gia đình thì kỳ công lên rừng kiếm trứng kiến về thổi xôi trứng kiến để cúng tổ tiên với ngụ ý là mong muốn được con đàn cháu đống.
Mộ của người Sán Dìu thường không tập trung, có những mộ ở rất xa nên việc tảo mộ có thể mất cả ngày, thậm chí 2 ngày mới xong. Đến mỗi ngôi mộ, người Sán Dìu sẽ dọn sạch cỏ dại, đắp lại đất cho gọn gàng hoặc quét lại vôi cho mới. Sau đó treo 5 cán cờ nhỏ có dán giấy hình nhân với màu sắc rực rỡ ở 4 góc mộ và chính giữa mộ. Mộ nào có nhiều cờ hình nhân treo lên 5 cán thì chứng tỏ người đó có đông con, đông cháu. Mâm cơm cúng của người Sán Dìu ở mộ gồm có 5 nắm xôi, 5 con cá trôi trắng nướng, 5 chén rượu. Người già nhất trong gia đình sẽ đọc bài cúng thể hiện sự thành kính và cầu mong tổ tiên phù hộ cho con cháu có cuộc sống khỏe mạnh, đủ đầy. Khi hương tàn, tất cả mọi người ngả mâm quây quần cùng ăn ngay tại mộ, chuyện trò vui vẻ như muốn tri ân cùng người quá cố.
Ngày tảo mộ thì có thể trước, sau 3 ngày; nhưng đến ngày chính thanh minh thì mỗi gia đình lại tập trung con cháu làm cơm cúng tại nhà. Tại bàn thờ gia tiên thì cúng gà, xôi, rượu và bánh. Trong ngày này, ngoài bánh trôi như người Kinh thì Người Sán Dìu còn có khá nhiều loại bánh đặc sắc như: bánh “nép cóc phô” (gần giống như bánh xủi cảo, nhưng thay nhân thịt là nhân đỗ), bánh chấy (giống bánh trôi nhưng không có nhân và bao đường bên ngoài)...
Tết Thanh minh tuy là tết nhỏ, nhưng nó mang ý nghĩa lớn là sự báo hiếu đối với những người đã khuất trong dòng họ, là dịp biết ơn và ôn lại lai lịch của các thành viên, cũng là dịp để cao niên trong họ truyền lại cho con cháu đời sau ghi nhớ đến phần mộ của ông bà, tổ tiên. Đây cũng là nét đẹp mang bản sắc của người Sán Dìu cần được gìn giữ và lưu truyền cho muôn đời sau.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét